Hỏi: Chúng tôi thấy cán bộ ở địa phương có việc làm trái. Một số người cũng nhận thấy điều đó nhưng khi đặt vấn đề cần tố cáo thì họ lại tỏ ra ái ngại, sợ bị liên lụy. Xin cho biết, pháp luật có thừa nhận đơn tố cáo không ký tên người tố cáo không? Làm sao để người tố cáo có thể an tâm trong trường hợp này?
Phan Tấn Hưng (Vạn Ninh)
Trả lời: Theo Luật Tố cáo, tố cáo là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: a) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; b) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Luật Tố cáo quy định, việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Trường hợp tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo. Người tố cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn tố cáo. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo hoặc ghi lại nội dung tố cáo bằng văn bản và yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản. Quy định này cho thấy rõ trách nhiệm của người tố cáo là phải ký tên (hoặc điểm chỉ) vào đơn tố cáo.
Trong điều luật quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo và giải quyết tố cáo, để bảo vệ người tố cáo có điều cấm “Tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và thông tin khác làm lộ danh tính của người tố cáo”; “Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo”; “Đe dọa, mua chuộc, trả thù, trù dập, xúc phạm người tố cáo”.
Đồng thời Luật Tố cáo dành một chương về bảo vệ người tố cáo. Trong đó xác định người được bảo vệ, phạm vi bảo vệ; quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ; cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và quy định rõ về trình tự, thủ tục bảo vệ. Các biện pháp bảo vệ được nói rõ, gồm: Bảo vệ bí mật thông tin; biện pháp bảo vệ vị trí công tác, việc làm; biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm.
Mặt khác, trong công tác tiếp nhận, xử lý thông tin có nội dung tố cáo, Luật ghi nhận cơ quan, tổ chức khi nhận được thông tin có nội dung tố cáo nhưng không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo hoặc qua kiểm tra, xác minh không xác định được người tố cáo hoặc người tố cáo sử dụng họ tên của người khác để tố cáo hoặc thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức quy định thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không xử lý. Trường hợp thông tin có nội dung tố cáo rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tiến hành việc thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để tiến hành việc thanh tra, kiểm tra phục vụ cho công tác quản lý.
Luật sư NGUYỄN THIỆN HÙNG