Hỏi: Chúng tôi thấy ở thôn khi có phát sinh tranh chấp hay mâu thuẫn gì giữa các cá nhân hay hộ gia đình với nhau thì có một số cán bộ đến hòa giải. Trong số tham gia công tác hòa giải có người là cán bộ nghỉ hưu, có kinh nghiệm công tác, nhưng cũng có người trẻ. Xin cho biết pháp luật đòi hỏi cán bộ hòa giải phải có trình độ hiểu biết pháp luật đến đâu và công việc hòa giải ở cơ sở được tổ chức thế nào?
Trần Quang (Diên Lâm, Diên Khánh)
Trả lời: Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật. Tinh thần này đã được ghi nhận tại Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013.
Như vậy, Luật đã chỉ rõ, hòa giải ở cơ sở là công việc được giao cho người là hòa giải viên trực tiếp thực hiện. Để trở thành hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân, có hiểu biết pháp luật và được bầu, công nhận là hòa giải viên.
Người có các tiêu chuẩn nêu trên có quyền ứng cử hoặc được ban công tác mặt trận phối hợp với các tổ chức thành viên của mặt trận giới thiệu vào danh sách bầu hòa giải viên. Trưởng ban công tác mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố tổ chức bầu hòa giải viên ở thôn, tổ dân phố bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp đại diện các hộ gia đình hoặc phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình. Người được đề nghị công nhận là hòa giải viên phải đạt trên 50% đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố đồng ý. Trên cơ sở đề nghị của ban công tác mặt trận, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận hòa giải viên.
Về tổ chức, tổ hòa giải có tổ trưởng và các hòa giải viên. Mỗi tổ hòa giải có từ 3 hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ. Đối với vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, tổ hòa giải phải có hòa giải viên là người dân tộc thiểu số. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã quyết định số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên trong một tổ hòa giải căn cứ vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, dân số của địa phương và đề nghị của ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.
Việc hòa giải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói với sự có mặt của các bên; được tiến hành công khai hoặc không công khai theo ý kiến thống nhất của các bên. Tùy thuộc vào vụ, việc cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân, hòa giải viên áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giúp các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ, việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Hòa giải viên có trách nhiệm ghi nội dung vụ, việc hòa giải vào sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở. Trường hợp các bên đồng ý thì lập văn bản hòa giải thành theo quy định.
Luật Hòa giải ở cơ sở còn quy định, trong quá trình hòa giải, nếu thấy cần thiết, hòa giải viên và một trong các bên khi được sự đồng ý của bên kia có thể mời người có uy tín trong dòng họ, ở nơi sinh sống, nơi làm việc; người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội; già làng, chức sắc tôn giáo, người biết rõ vụ, việc; đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc người có uy tín khác tham gia hòa giải.
Luật sư NGUYỄN THIỆN HÙNG